Lịch sử một địa danh Châu_Thành

Trong các tài liệu sử chính thống của triều Nguyễn như Gia Định thành thông chíĐại Nam nhất thống chí đều không ghi lại địa danh nào là Châu Thành ở vùng đất mới. Thậm chí Đại Nam nhất thống chí dù chép rất chi tiết lỵ sở của Tỉnh thành, Phủ trị, huyện trị, nhưng không có địa danh Châu Thành nào.

Từ lúc kiểm soát được tỉnh Gia Định (1862) cho đến khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ (1867), thực dân Pháp vẫn tạm thời duy trì cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn một thời gian. Thời gian này, người Pháp gọi département thay cho phủ, gọi arrondissement thay cho huyện[9] ở những vùng họ chiếm được. Tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt nhân sự, người Pháp không duy trì bộ máy hành chính ở cấp tỉnh và cấp phủ, mà cố duy trì bộ máy hành chính cũ ở cấp huyện, với sự hợp tác của các quan lại cũ đã đầu hàng, dưới sự giám sát của các Thanh tra bản xứ vụ (inspecteur des affaires indigènes) người Pháp. Mỗi thanh tra phải kiêm quản việc giám sát của nhiều huyện hợp lại thành địa bàn của hạt thanh tra (inspection). Các hạt thanh tra đặt trực tiếp dưới quyền lãnh đạo của Soái phủ Nam Kỳ. Toàn cõi Nam Kỳ bấy giờ có 27 hạt thanh tra như thế.

Mãi đến sau khi chiếm được Nam Kỳ lục tỉnh, năm 1867, thực dân Pháp bãi bỏ một phần phân cấp hành chính của nhà Nguyễn. Cấp phủ hoàn toàn bị bãi bỏ. Các hạt thanh tra được đặt tên lại, hầu hết theo tục danh bằng tên Nôm của địa danh thôn xã nơi đặt lỵ sở hạt thanh tra. Các hạt của Nam Kỳ bấy giờ bao gồm:[10]

  • Tỉnh Biên Hòa: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một (Bình An), Long Thành, Thủ Đức (Ngãi An).
  • Tỉnh Sài Gòn (Gia Định): Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Giuộc (Phước Lộc), Gò Công, Bình Lập (Tân An), Tây Ninh, Trảng Bàng (Quang Hóa).
  • Tỉnh Mỹ Tho (Định Tường): Mỹ Tho, Chợ Gạo (Kiến Hòa), Cần Lố (Kiến Phong), Cai Lậy (Kiến Đăng).
  • Tỉnh Vĩnh Long: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.
  • Tỉnh Châu Đốc (An Giang): Châu Đốc, Sa Đéc, Sóc Trăng.
  • Tỉnh Hà Tiên: Hà Tiên, Rạch Giá.

Theo Nghị định ngày 7 tháng 6 năm 1871, chính quyền thuộc địa thay tên gọi hạt thanh tra "inspection" bằng địa hạt "arrondissement". Người đứng đầu địa hạt được gọi là Chánh tham biện (administrateur).[11] Toàn cõi Nam Kỳ được thu gọn còn 19 hạt:[12]

Mặc dù vẫn duy trì tên gọi của các tỉnh tương tự như thời Nguyễn, nhưng tên tỉnh không còn bất kỳ một ý nghĩa hành chính đặc biệt nào.[13] Cấp huyện cũng bị bãi bỏ hoàn toàn.

Nơi đặt lỵ sở của các địa hạt được gọi là chef-lieu (thủ phủ), cùng tên với tên địa hạt, dân gian gọi là "châu thành". Vì vậy để phân biệt với tên hạt, dân gian thường đặt thêm từ "châu thành" trước tên hạt để phân biệt, lâu dần thành tên thông dụng.

Thực dân Pháp vẫn tiếp tục quá trình cải tổ phân cấp hành chính ở Nam Kỳ theo khuôn mẫu tại chính quốc. Nghị định ngày 16 tháng 1 năm 1899, đổi tên hạt thành tỉnh (province), và từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, toàn cõi Nam Kỳ chia thành 20 tỉnh như sau:

Ngoài ra còn có 3 thành phố độc lập là Sài Gòn, Chợ Lớn và Cap Saint Jacques (Vũng Tàu).

Danh xưng người đứng đầu cũng thay đổi, từ Chánh tham biện đổi thành Chủ tỉnh (chef de la province)[11], Tòa tham biện gọi là Tòa bố.

Đến đầu thập niên 1900, thực dân Pháp phân chia hành chính tỉnh thành các quận (circonscription) hoặc đại lý hành chánh (délégation) dưới quyền chủ quận hay phái viên hành chánh; quận chia ra tổng (canton), đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành xã.[14] Hệ thống hành chính cũ của nhà Nguyễn bị xoá bỏ hoàn toàn trên cõi Nam Kỳ.

Bắt đầu từ năm 1912, danh xưng Châu Thành bắt đầu chính thức được đặt cho đơn vị hành chính cấp quận ở Nam Kỳ với sự thành lập của quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Tính đến năm 1944, khi quận Châu Thành, tỉnh Tân Bình được thành lập, trong 21 tỉnh trên toàn cõi Nam kỳ, trừ 4 tỉnh Gò Công, Gia Định, Chợ LớnBạc Liêu, các tỉnh còn lại đều thành lập quận Châu Thành trên cơ sở thủ phủ của các địa hạt xưa. Từ đó, danh từ Châu Thành được dùng để đặt cho nhiều địa danh chính thức cho đến tận ngày nay ở miền Nam Việt Nam.